“Anh em là chứng nhân của Thầy”.
Hai tiếng chứng nhân ấy không còn xa lạ với mỗi chúng ta. Chúa Giêsu trước khi về trời đã trao bài sai
cho các môn đệ: “Anh em hãy ra đi khắp tứ phương thiên hạ, giảng dạy cho muôn
dân và làm phép rửa cho họ”. Sứ điệp Lời Chúa ngày Khánh nhật Truyền giáo nhắc
chúng ta về sứ mạng làm chứng cho Chúa bằng đời sống đức tin trong lòng xã hội
hôm nay.
Chính Chúa Giêsu là nhà truyền
giáo đầu tiên và Ngài đã mời gọi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Không
chỉ có hàng Giáo phẩm, Giáo sĩ mới có nhiệm vụ làm chứng nhưng mọi Kitô hữu đều
có nghĩa vụ và bổn phận đó. Để có thề làm chứng, trước hết người tông đồ giáo
dân cần phải có niềm tin tuyệt đối vào Đức Kitô như thánh Phaolô đã nói: “Tôi
biết tôi đã tin vào Đấng nào” (2Tm 1,12).
Chính niềm tin vào Đức Giêsu Kitô
Phục Sinh sẽ thúc đẩy người tông đồ mạnh dạn sống và loan báo Ngài cho người
khác, như hai thánh tông đồ Phêrô và Gioan đã mạnh dạn nói trước Thượng hội đồng
khi bị cấm rao giảng về Đức Giêsu: “Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng
tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20).
Trong Sứ điệp cho
Ngày Thế giới Truyền giáo 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “mọi thành viên của Hội Thánh được kêu gọi rao giảng Tin Mừng bằng chứng tá
đời sống của mình“. Và trong tông huấn Niềm vui của Tin Mừng ngài cũng “mời mọi Kitô
hữu ở khắp nơi, ngay từ lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ cá vị và mới mẻ với Đức
Giêsu Kitô”. Gặp gỡ Đức Kitô nơi giáo lý và giáo huấn của
Giáo Hội, gặp gỡ Đức Kitô trong những giây phút lắng đọng tâm hồn để lắng
nghe, học hỏi Lời Ngài … là những điều cần thiết cho hành trang người
tông đồ giáo dân.
Sống chứng nhân bằng đức tin đòi
hỏi người tông đồ phải có hoài bão, lí tưởng đem Lời Chúa đến cho mọi người. Luôn
băn khoăn xao xuyến, thao thức dấn thân đế biến hoài bão, lí tưởng đó trở thành
hiện thực. Trong thư thứ 1 gởi giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô nhắn nhủ người tông
đồ cần xác định việc “… rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó
là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm …” (1Cor 9,16)
Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân của
công đồng Vatican II đã nhấn mạnh đến sự góp phần của giáo dân vào công cuộc
loan báo Tin Mừng bằng chứng tá của đời sống và bằng lời rao giảng. “Chính chứng tá của đời sống Kitô hữu và
những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến
đức tin và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán: "Sự sáng của các con phải
chiếu giãi trước mắt mọi người, để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen
Cha các con ở trên trời" (Mt 5,16).
Tuy nhiên việc tông đồ này không chỉ ở tại việc làm chứng bằng đời
sống. Người tông đồ đích thực còn tìm dịp loan truyền Chúa Kitô bằng lời nói
hoặc cho người chưa tin để đưa họ đến đức tin, hoặc cho tín hữu để giáo huấn
họ, củng cố và thúc đẩy họ sống sốt sắng hơn vì “tình yêu Chúa Kitô thôi thúc
chúng ta" (2 Cor 5,14) và trong lòng mọi người phải âm vang lời Thánh Tông
Ðồ: "Thật khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm" (1Cor 9,16.)”
Sứ mạng làm chứng của chúng ta
không được ngộ nhận như một nghề nghiệp để tìm vinh danh cho mình, muốn người
ta chú ý đến việc tốt mình làm. Người Kitô hữu truyền giáo không phải để bám rễ,
xí phần nơi truyền giáo. Nhưng phải từ bỏ mình với những lợi lộc, vinh hoa trần
thế như lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô : “Ra đi từ vùng đất tiện nghi
của mình, để đến với mọi vùng “ngoại vi” đang cần ánh sáng Tin Mừng”. Làm chứng
bằng đời sống đức tin là luôn nhân danh Chúa, để Chúa lớn lên trong lòng mọi
người bằng những tương quan bác ái.
Không phải ai cũng có thể truyền
giáo bằng đời sống tương quan bác ái hoàn hảo. Chúa Giêsu đã Nhập Thể để kết
nối tương quan tình thương của Thiên Chúa với tương quan bác ái cho con người. Để
xây dựng tốt mối tương quan này, người tông đồ giáo dân phải luôn luôn ở trong
Chúa. Nghĩa là chúng ta luôn ở trong lời cầu nguyện đơn sơ và hoàn toàn
phó thác.
Chúa Giêsu không sai các môn đệ
đi truyền bá lý thuyết hay những tư tưởng cao siêu, nhưng sai đi để làm chứng
về những gì các ông đã thấy, đã nghe và đã tin. Người tông đồ giáo dân cũng được
mời gọi làm chứng về những điều mình đã tin. Nhưng để trở thành một chứng nhân
đích thực, cần phải có kinh nghiệm bản thân về những điều mình tin, và sống
kinh nghiệm ấy trong con người của mình.
Một cô bé trước khi được phẫu thuật
tim đã xin các bác sĩ trong ê-kíp giải phẫu cho mình được cầu nguyện cùng Thiên
Chúa và dĩ nhiên đã được chấp thuận. Nhìn cô bé quỳ gối thành khẩn cầu nguyện
với nét mặt ngây thơ tín thác, các bác sĩ đã xúc động. Cuộc phẫu thuật kéo dài
hơn mấy tiếng đồng hồ và đã thành công.
Chúa Nhật sau đó, vị bác sĩ
trưởng bất ngờ đến thăm cô bé và nói: ”Chú cám ơn con nhiều lắm! Thật ra chú
cũng là người có đạo như con, nhưng chú không tuyên xưng được đức tin như con
vì nhiều lẽ. Chú đã sống như một người vô đạo, không nhớ tới Chúa. Chính con đã
làm thức tỉnh lòng chú khi thấy con là một cháu bé mà tuyên xưng đức tin mạnh
mẽ như vậy.”
Sống đức tin đơn sơ phó thác như
cô bé phải chăng là một chứng nhân của đời
sống Kitô hữu chưa cần tới lời rao giảng? Gặp trường hợp phải tuyên xưng đức
tin của mình, chúng ta có dám làm như cô bé dù chỉ là một dấu thánh giá trên
trán?
Đã đăng trên:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét