Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2015

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO: LÀM CHỨNG

“Anh em là chứng nhân của Thầy”. Hai tiếng chứng nhân ấy không còn xa lạ với mỗi chúng ta. Chúa Giêsu trước khi về trời đã trao bài sai cho các môn đệ: “Anh em hãy ra đi khắp tứ phương thiên hạ, giảng dạy cho muôn dân và làm phép rửa cho họ”. Sứ điệp Lời Chúa ngày Khánh nhật Truyền giáo nhắc chúng ta về sứ mạng làm chứng cho Chúa bằng đời sống đức tin trong lòng xã hội hôm nay.

Chính Chúa Giêsu là nhà truyền giáo đầu tiên và Ngài đã mời gọi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Không chỉ có hàng Giáo phẩm, Giáo sĩ mới có nhiệm vụ làm chứng nhưng mọi Kitô hữu đều có nghĩa vụ và bổn phận đó. Để có thề làm chứng, trước hết người tông đồ giáo dân cần phải có niềm tin tuyệt đối vào Đức Kitô như thánh Phaolô đã nói: “Tôi biết tôi đã tin vào Đấng nào” (2Tm 1,12).

Chính niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh sẽ thúc đẩy người tông đồ mạnh dạn sống và loan báo Ngài cho người khác, như hai thánh tông đồ Phêrô và Gioan đã mạnh dạn nói trước Thượng hội đồng khi bị cấm rao giảng về Đức Giêsu: “Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20).

Trong Sứ điệp cho Ngày Thế giới Truyền giáo 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “mọi thành viên của Hội Thánh được kêu gọi rao giảng Tin Mừng bằng chứng tá đời sống của mình“. Và trong tông huấn Niềm vui của Tin Mừng ngài cũng “mời mọi Kitô hữu ở khắp nơi, ngay từ lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ cá vị và mới mẻ với Đức Giêsu Kitô”. Gặp gỡ Đức Kitô  nơi giáo lý và giáo huấn của Giáo Hội, gặp gỡ Đức Kitô  trong những giây phút lắng đọng tâm hồn để lắng nghe, học hỏi Lời Ngài … là những điều cần thiết cho hành trang người tông đồ giáo dân.

Sống chứng nhân bằng đức tin đòi hỏi người tông đồ phải có hoài bão, lí tưởng đem Lời Chúa đến cho mọi người. Luôn băn khoăn xao xuyến, thao thức dấn thân đế biến hoài bão, lí tưởng đó trở thành hiện thực. Trong thư thứ 1 gởi giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô nhắn nhủ người tông đồ cần xác định việc “… rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm …” (1Cor 9,16)

Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân của công đồng Vatican II đã nhấn mạnh đến sự góp phần của giáo dân vào công cuộc loan báo Tin Mừng bằng chứng tá của đời sống và bằng lời rao giảng. “Chính chứng tá của đời sống Kitô hữu và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán: "Sự sáng của các con phải chiếu giãi trước mắt mọi người, để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời" (Mt 5,16).

Tuy nhiên việc tông đồ này không chỉ ở tại việc làm chứng bằng đời sống. Người tông đồ đích thực còn tìm dịp loan truyền Chúa Kitô bằng lời nói hoặc cho người chưa tin để đưa họ đến đức tin, hoặc cho tín hữu để giáo huấn họ, củng cố và thúc đẩy họ sống sốt sắng hơn vì “tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng ta" (2 Cor 5,14) và trong lòng mọi người phải âm vang lời Thánh Tông Ðồ: "Thật khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm" (1Cor 9,16.)”


Sứ mạng làm chứng của chúng ta không được ngộ nhận như một nghề nghiệp để tìm vinh danh cho mình, muốn người ta chú ý đến việc tốt mình làm. Người Kitô hữu truyền giáo không phải để bám rễ, xí phần nơi truyền giáo. Nhưng phải từ bỏ mình với những lợi lộc, vinh hoa trần thế như lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô : “Ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình, để đến với mọi vùng “ngoại vi” đang cần ánh sáng Tin Mừng”. Làm chứng bằng đời sống đức tin là luôn nhân danh Chúa, để Chúa lớn lên trong lòng mọi người bằng những tương quan bác ái.

Không phải ai cũng có thể truyền giáo bằng đời sống tương quan bác ái hoàn hảo. Chúa Giêsu đã Nhập Thể để kết nối tương quan tình thương của Thiên Chúa với tương quan bác ái cho con người. Để xây dựng tốt mối tương quan này, người tông đồ giáo dân phải luôn luôn ở trong Chúa. Nghĩa là chúng ta luôn ở trong lời cầu nguyện đơn sơ và hoàn toàn phó thác.

Chúa Giêsu không sai các môn đệ đi truyền bá lý thuyết hay những tư tưởng cao siêu, nhưng sai đi để làm chứng về những gì các ông đã thấy, đã nghe và đã tin. Người tông đồ giáo dân cũng được mời gọi làm chứng về những điều mình đã tin. Nhưng để trở thành một chứng nhân đích thực, cần phải có kinh nghiệm bản thân về những điều mình tin, và sống kinh nghiệm ấy trong con người của mình.

Một cô bé trước khi được phẫu thuật tim đã xin các bác sĩ trong ê-kíp giải phẫu cho mình được cầu nguyện cùng Thiên Chúa và dĩ nhiên đã được chấp thuận. Nhìn cô bé quỳ gối thành khẩn cầu nguyện với nét mặt ngây thơ tín thác, các bác sĩ đã xúc động. Cuộc phẫu thuật kéo dài hơn mấy tiếng đồng hồ và đã thành công.

Chúa Nhật sau đó, vị bác sĩ trưởng bất ngờ đến thăm cô bé và nói: ”Chú cám ơn con nhiều lắm! Thật ra chú cũng là người có đạo như con, nhưng chú không tuyên xưng được đức tin như con vì nhiều lẽ. Chú đã sống như một người vô đạo, không nhớ tới Chúa. Chính con đã làm thức tỉnh lòng chú khi thấy con là một cháu bé mà tuyên xưng đức tin mạnh mẽ như vậy.”

Sống đức tin đơn sơ phó thác như cô bé phải chăng là một chứng nhân  của đời sống Kitô hữu chưa cần tới lời rao giảng? Gặp trường hợp phải tuyên xưng đức tin của mình, chúng ta có dám làm như cô bé dù chỉ là một dấu thánh giá trên trán?


Đã đăng trên: