Thứ Năm, 22 tháng 12, 2016

CHÚT CẢM NGHĨ MÙA NOEL 2016


Noel đến, những khu phố, những con đường thành phố rực lên màu sắc của đèn sao chớp tắt lung linh lấp lánh. Những hang đá giáng sinh huyền ảo, lạnh lẽo với cỏ rơm, bò lừa. Tiếng thánh ca nhẹ nhàng, thánh thót hòa chung với tiếng chuông nhà thờ vang lên réo rắt.

Nghe văng vẳng đâu đây khúc nhạc “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Khúc nhạc cứ vang lên như vỗ về an ủi lòng người với bao mơ ước hi vọng ở cõi nhân gian: cầu mong người thiện tâm được an bình trong cuộc đời này.

Nhưng buồn thay mùa Noel này, phận người sao lao đao quá. Đồng bào các tỉnh Miền Trung vẫn đang phải dầm mình trong những cơn mưa rồi lũ lụt. Sáng tháng Chạp trời sương mù trở lạnh rồi những cơn mưa kéo về thành phố. Có chút gì đó cay cay nhạt nhòa trong thời tiết của đất trời.


Chắc hẳn nơi vùng lũ làm gì có những hang đá đèn sao nhấp nháy, những dòng người chen chân dạo phố và selfie bên những cây thông, ông già tuyết. Chỉ có những con người lầm lũi chống chọi trong cơn mưa lũ, bên những mái nhà xiêu đổ đang cố gắng níu kéo lại chút tài sản đang dập dềnh trên dòng nước. Những con người ngược xuôi phố xá, dưới cơn mưa tầm tã giúp người già và trẻ thơ thoát qua vùng nước chảy xiết.

Ngày xưa, Chúa Giêsu là kẻ không nhà khi xuống trần sinh ra trong hang đá, nơi trú ẩn của đàn gia súc. Người đã muốn trở nên người nghèo khó bất hạnh để cảm thông với những người nghèo trên trần gian này. Người không chỉ dạy chúng ta sống nghèo mà còn phải cảm thông, chia sẻ với những người nghèo, kém may mắn.



Xin cho ánh sáng sao mùa Noel 2016 không bị che lấp bởi những niềm vui trần tục. Xin mọi người cùng đáp lại lời kêu gọi của các vị Mục tử trong Thư Mục vụ Mùa Vọng – Giáng Sinh 2016: bớt tiêu xài, vui chơi, mua sắm để chung tay chia sẻ tiền bạc và của cải vật chất cho những người kém may mắn. Những món quà trong dịp Noel này sẽ mang lại niềm vui và nhất là niềm hy vọng cho những nạn nhân vùng lũ, để họ có điều kiện mừng lễ và cảm nhận được sự gần gũi sống động của tình yêu Thiên Chúa.




Thứ Tư, 21 tháng 12, 2016

CHÚT RƠM NỒNG CHỜ MONG CHÚA ĐẾN


Tiết Sài Gòn những ngày cuối tháng 11 có những ngọn gió se se mát lạnh vào chiều tối và hơi sương sớm bảng lảng quanh những ngọn đèn đường. Dù thế vẫn có những cơn mưa chợt đến, ào ào biến những con đường vùng trũng thành những dòng sông cuồn cuộn ngay trong lòng phố.

Người ta nói rằng đó là hậu quả của sự biến đổi khí hậu nhưng có thể thấy rằng các nguyên nhân gây ra chủ yếu là do các hoạt động của con người. Việc đốt các nhiên liệu hóa thạch (than đá, dầu mỏ, …) phục vụ các hoạt động công nghiệp, giao thông vận tải, … và việc thay đổi mục đích sử dụng đất bao gồm thay đổi trong nông nghiệp và nạn phá rừng lấy gỗ.

Đến rồi đi, dân thành phố tuy có chút gian nan chống chỏi nhưng vẫn không thấm vào đâu so với những cơn mưa lũ miền Trung. Những cơn bão từ biển Đông, những cơn mưa lớn rồi lũ ống, lũ quét … đã thay phiên nhau làm cho vùng đất nhỏ hẹp - mặt hướng ra biển Đông, lưng dựa vào dãy Trường Sơn - biến thành những biển nước trắng xóa.

Những con đường, những mái nhà, khuôn viên thánh đường… nhạt nhòa trong khung cảnh ảm đạm của dòng nước lũ. Hình ảnh những trẻ em đứng trên mái nhà, đầu con bò được chủ cột dây kéo hếch cái mũi lên khỏi làn nước đục để tìm kiếm sự sống đã làm nao lòng biết bao người.


Thương sao đứa trẻ mới chào đời chưa tới mười ngày đã phải cùng mẹ đi lánh lũ, cảnh bà mẹ chuyển dạ trùm áo tơi trên chiếc ghe được người dân đưa đi trạm xá, cảnh cô dâu lênh đênh trên mênh mông biển nước khi về nhà chồng …. Ánh mắt xót xa thẫn thờ của những người dân lam lũ từ trên gác mái nhà nhìn xuống dòng nước đang nhấn chìm tài sản của gia đình mà bất lực: cuộc sống sẽ ra sao khi ngày mai lương thực, hoa màu, cây cối, gia súc, gia cầm, vật dụng đang bị dòng nước lũ cuốn trôi tan tác?

Lũ đã rút nhưng ngoài thiệt hại về người và của, người dân còn phải mất nhiều ngày lau chùi nhà cửa, dọn dẹp quang cảnh tan hoang. Ngoài ra là cảnh thiếu nước sạch và nỗi lo dịch bệnh lây lan sau khi nước rút … đang đè nặng lên vai những người dân vùng lũ.

Truyền thống “lá lành đùm lá rách, lá rách đùm lá nát” tốt đẹp của dân tộc Việt Nam hơn lúc nào hết đã được thể hiện bằng những tấm lòng bác ái vị tha quảng đại. Cho đến nay, lời cổ nhân vẫn nhắc nhở chúng ta phải “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.

Dù có chung niềm tin tín ngưỡng hay không, đồng bào miền Trung vẫn là những người anh em “máu đỏ da vàng” như trong dụ ngôn người Samari nhân hậu. Hơn thế nữa, chính khi thương cảm, quan tâm, chia sẻ và sẵn sàng giúp đỡ mọi người chung quanh, ta sẽ thấy được lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.

Trong Thư kêu gọi cứu trợ nạn nhân bão lụt miền Trung ngày 18/10/2016, Hội Đồng Giám Mục (HĐGM) Việt Nam đã kêu gọi Cộng đồng Dân Chúa tại VN và hải ngoại cùng chung tay góp sức giúp đỡ đồng bào lâm nạn vượt qua khó khăn vì “Đây là cơ hội quý báu để chúng ta khám phá dung mạo của Chúa Giêsu nơi tha nhân theo tinh thần của ĐTC Phanxicô trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Hơn bao giờ hết, Chúa Giêsu nơi người anh em cùng quẫn đang từng ngày từng giờ chờ đợi chúng ta đến cứu vớt.”

Nhưng không cần chờ đợi những lời kêu gọi, ngay trong những ngày mưa lũ, Tòa Giám mục GP Vinh cùng các cha sở tại nơi có lũ cũng ra sức ứng cứu giúp dân đối phó với lũ. Bằng những phương tiện thô sơ, các ngài đã đi đến từng nhà thăm hỏi và tặng quà cho giáo dân vùng lũ. Những ngôi thánh đường không bị nước ngập đã mở rộng cửa đón nhiều người không phân biệt lương, giáo, trong và ngoài giáo xứ đến tạm cư.

Trong chuyến viếng thăm cứu trợ đồng bào bị lũ lụt tại một số nơi thuộc Hà Tĩnh và Quảng Bình, Đức cha Chủ tịch HĐGM Việt Nam đã nói: “Ngày hôm nay, phái đoàn có mặt nơi đây để nói lên sự quan tâm của HĐGM, của cộng đoàn Dân Chúa với hết thảy bà con. Phái đoàn cảm thấy vui và ấm lòng vì được ở bên cạnh anh chị em để chia sẻ và nâng đỡ… Hy vọng hơi ấm phái đoàn đem đến, một phần nào làm giảm bớt sự đau khổ mà anh chị em đang phải gánh chịu”.


Vâng, mưa lũ không chỉ mang đến khổ đau mà còn mang đến tình thương. Trong cơn bĩ cực, các ngài đã mang đến cho người dân vùng lũ hơi ấm của chủ chăn, hơi ấm về sự sẻ chia của các Kitô hữu VN. Hơi ấm của tình thương mà hơn hai ngàn năm trước hài nhi Giêsu đã đem đến cho trần gian trong đêm giáng thế.
Mùa Giáng Sinh nữa lại sắp trở về, trong mùa lễ mừng Chúa Giáng Sinh chúng ta thường tặng quà cho nhau để bày tỏ lòng yêu thương quý mến nhau. Có lẽ tục lệ này đã bắt nguồn từ mùa Giáng Sinh đầu tiên, khi ba vua phương Đông theo ánh sáng sao dẫn đường tìm gặp Chúa Hài Đồng và dâng cho Ngài những lễ vật đặc biệt.
Để đáp lại tình thương lớn nhất và món quà quý giá nhất mà Thiên Chúa đã dành tặng cho loài người là chính Ngôi Hai con Thiên Chúa, mỗi Kitô hữu chúng ta hãy dâng lên Chúa Giêsu Hài Đồng sự chia sẻ, sẵn sàng giúp đỡ tha nhân. Đó chính là món quà ý nghĩa nhất trong mùa tình thương giáng thế.

Ước gì mỗi người chúng ta biết nghĩ về những người đang ăn không đủ no, mặc không đủ ấm… Bớt tiêu xài, vui chơi mua sắm trong mùa Giáng Sinh, để chia sẻ tiền bạc và của cải vật chất cho những người đang tay trắng khắc phục hậu quả của trận lũ lụt khủng khiếp.

Quà tặng Giáng Sinh cho họ không chỉ bằng những hiện kim, hiện vật … mà còn bằng cả sự yêu thương chân thành trong lời kinh nguyện hiệp thông mỗi người trao cho nhau. Đồng cảm, đồng hành cùng những người thiện tâm như những cọng rơm khô bé nhỏ trong máng chiên bò luôn luôn tỏa nồng hơi ấm tình thương chờ mong Chúa đến.





Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2016

Chia sẻ Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng


HÃY TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG

Trong xã hội hiện nay, người ta thường khuyên mỗi người phải cảnh giác: cảnh giác với những kẻ bất lương, lừa đảo, với thực phẩm bẩn, với môi  trường sống … Những phút giây mất cảnh giác thường khiến con người phải trả giá: lúc thì của cải không cánh mà bay, lúc thì sức khỏe bị tổn hại và nhất là có thể mất mạng sống như chơi.

Không chỉ là những chuyện ban ngày ban mặt ngoài đường phố nhưng nhiều khi tai ương lại sập đến ngay tại nơi trú ẩn an toàn nhất là ngôi nhà của chính mình. Cũng giống như “thời ông Nô-ê, người ta không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy”; trận lũ lụt ở miền Trung vừa qua tràn về trong đêm tối khiến con người bàng hoàng trở tay không kịp, nhà cửa ruộng vườn tan hoang, của cải vật dụng gia súc trôi theo dòng nước.

Tin Mừng Chúa Nhật khởi đầu mùa Vọng theo thánh Mát-thêu đề cập đến sứ điệp cánh chung. Lời loan báo thời đại Con Người sẽ đến với những đảo lộn vũ trụ đáng sợ. Chúa Giê-su nhắc đến thiên tai hủy diệt nhân loại trong thời Cựu Ước là cơn lụt hồng thủy và những ai không sống tỉnh thức thì sẽ bị tận diệt, còn ai tỉnh thức và sống công chính thì sẽ được thoát nạn.

Con Người quang lâm mang tính cách “bất ngờ”, ai có ý thức và sống tỉnh thức chờ đợi sẽ được nhận mặt “tích cực” của biến cố này. Ngược lại, sẽ thật buồn cho những ai mù tối ăn chơi và hưởng thụ cuộc sống trong lạc thú và tội lỗi, mà không chú ý tỉnh thức, sám hối và ăn năn.

Ngoài ra, Thánh Mát-thêu cũng đề cập thêm về hai nhóm người trong ngày quang lâm của Con Người. Nhóm thứ nhất là hai người đàn ông đang làm ruộng và nhóm thứ hai là hai người đàn bà đang kéo cối xay. Nghĩa là cả hai nhóm người đang làm những công việc thường nhật.

Một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Như thế, khi Chúa đến thì có người được chọn và có người không được chọn. Giống như biến cố đại hồng thủy, ông Nô-ê được chọn cùng với con cháu, trong khi những người khác thì không được chọn.



Qua dụ ngôn đơn sơ này, Chúa Giê-su nhấn mạnh một giáo huấn quan trọng: "Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu.”

Như vậy, dù kẻ trộm có đến bất ngờ hoặc chủ nhà đã tiên đoán được thời gian kẻ trộm đến thì người chủ vẫn không được phép lơ đãng, mà luôn phải giữ tinh thần tỉnh thức sẵn sàng đối phó khi kẻ trộm khoét vách nhà mình. Qua yếu tố Chúa đến cách bất ngờ, Chúa Giê-su muốn nhắc nhở chúng ta cần phải tỉnh thức luôn.

Tỉnh thức và sẵn sàng là thái độ nền tảng mà người Ki-tô hữu cần có trong cuộc sống. Khi sống tỉnh thức và sẵn sàng chính là lúc chúng ta thắng mình, không để mình rơi vào tình trạng “ngủ mê”, không sẵn sàng đón tiếp Chúa đến. Vì không biết khi nào Chúa đến nên chúng ta phải khiêm tốn và luôn mở rộng tấm lòng cho Chúa, luôn giữ cho được mối dây tương quan tình yêu với Ngài.

Đó là sự khôn ngoan trong cuộc sống của người Ki-tô hữu, nhất là trong bầu khí của mùa Vọng, là thời gian chúng ta chờ trông Chúa đến. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng để khi Chúa đến, Ngài sẽ thấy chúng ta vẫn đang mở rộng cánh cửa tâm hồn sẵn sàng mời đón Ngài vào.



Thứ Bảy, 19 tháng 11, 2016

SẺ CHIA NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO


Ngày 20 -11 hằng năm được xã hội dành riêng để biết ơn, để tôn vinh thầy cô giáo. Những ngày này, ta bắt gặp những nụ cười: nụ cười của các thầy cô giáo, của các em học sinh và phụ huynh. Không cười sao được khi người ta trao tặng cho nhau những nụ hoa, những món quà tri ân nghĩa thiết.

Xin chia sẻ nụ cười tri ân với các vị thầy của tôi đang “ngậm cười nơi chín suối” - theo cách người ta thường nói. Những đấng bậc đã bỏ bao công sức giáo dục tri thức, nhân cách, lòng nhân ái và hơn tất cả là giáo dục đức tin để thế hệ chúng tôi trở thành những người công dân hữu ích, những tín hữu trưởng thành, biết sống chân thành, ngay thẳng và sẵn sàng giúp đỡ tha nhân.



Nhưng thật ra cũng có nhiều kiểu cười khác nhau, có những nụ cười lại mang hương vị đăng đắng như ly café “60 giây” buổi sáng. Xin chia sẻ với các đồng nghiệp bị trù dập, ngược đãi … thậm chí bị hành hung vì tâm huyết với nghề đã dũng cảm và dạy cho học sinh đấu tranh với cái xấu.

Xin chia sẻ với các đồng nghiệp của tôi vẫn đang phải làm “soái ca” trong những lớp học nóng bức với gần 50 học sinh đang tuổi hiếu động. Thầy và trò cùng vã mồ hôi để hoàn thành những tiết học mà đôi khi vì tác động của môi trường đã không kiềm chế được cơn nóng giận, bị xử lí và dằn vặt với lương tâm mình.

Xin chia sẻ với các cô giáo trường mầm non, tiểu học, THCS tại một tỉnh vừa mới thoát khỏi cảnh thiên tai lũ lụt được điều động đi làm công tác “lễ tân, tiếp rượu” ngoài công việc đứng trên bục giảng. Xin các đồng nghiệp nữ có “ngoại hình ưa nhìn” đừng bức xúc khi một số quan khách khi uống rượu vào đã có các hành động khiếm nhã. Các cô đã được “vinh dự” vị lãnh đạo ngành tại địa phương đã minh oan: "Chuyện đi tiếp khách là hoàn toàn trong sáng. Tuy nhiên, trong các bữa tiệc, rượu vô thì lời ra; ai đó có một hành động không đẹp thì cũng là chuyện bình thường trong cuộc sống"!

Xin chia sẻ với các em học sinh của tôi vẫn đang băn khoăn khi bước vào ngưỡng cửa ĐH với mơ ước một thời về nghề dạy học lời comment của một phụ huynh trên một trang báo mạng: Tôi khuyên các em học sinh hãy bỏ ước mơ vào SP đi, học làm gì 4 năm để rồi ra trường thất nghiệp, đi dạy hợp đồng với đồng lương chết đói.... Hãy nghĩ đến việc nuôi sống mình và gia đình mình sau này (chả nhẽ cứ ăn bám bố mẹ mãi, làm thầy cô giáo dạy học sinh cả về kiến thức và đạo đức nhưng không có tiền thì sao báo hiếu được bố mẹ đây: nhục lắm)”.


Nhưng như thiền sư Thích Nhất Hạnh có nói: “Thường khi, niềm vui là ngọn nguồn của nụ cười, nhưng đôi khi, nụ cười là ngọn nguồn của niềm vui”. Vậy, trong ngày vui hôm nay xin hãy nở những nụ cười và giúp những người xung quanh mình cười lên, để ngày “Tôn sư trọng đạo” được tràn ngập những nụ cười tươi tắn và khơi nguồn cho những niềm vui trọn vẹn.

Xuân Hiểu

CÁC DỤ NGÔN VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT TRONG TIN MỪNG LUCA

Dụ ngôn thường là những câu chuyện đơn giản và dễ nhớ, có hình ảnh gần gũi với đời thường, nhưng cũng mang nghĩa vĩ mô về chủ đề tôn giáo, luật lệ. Dụ ngôn thường có rất ít chi tiết trong chuyện. Nếu nhắc đến chi tiết thì mỗi chi tiết dù nhẹ nhàng, nhỏ đến đâu chúng đều có ý nghĩa riêng của nó. Dụ ngôn cũng không nhắc đến nơi chốn cố định, rõ ràng và thời gian. Chi tiết trong dụ ngôn rất thực với thực tế cuộc sống và hiện thực trong xã hội loài người vì thế dụ ngôn bất biến với thời gian và văn hoá. Có thể áp dụng dụ ngôn thích hợp cho cuộc sống trong mọi thời đại và mọi hoàn cảnh với phong tục tập quán khác nhau.

Cấu tạo của dụ ngôn thường có ba phần. Trước hết là khung cảnh của dụ ngôn. Sau đó là hành động hoặc tâm tình của nhân vật và thứ ba là kết quả ngạc nhiên, bất ngờ xảy đển ngoài sự tiên đoán, mong đợi của người đọc. Tâm tình của nhân vật trong dụ ngôn thường liên quan đến quyết định khó khăn, nhức nhối thuộc về đạo đức, nhân cách và công bằng xã hội. Nói tóm gọn là vấn đề tình yêu. Nhân vật trong dụ ngôn không hài lòng với cuộc sống hiện tại và tìm cách giải phóng mình khỏi những ràng buộc hiện tại.

Dụ ngôn là một phần quan trọng trong giáo huấn của Chúa Giêsu, thể hiện phong cách giảng đạo linh hoạt của Người đối với những người bình dân. Trong nền văn minh phương Tây, các dụ ngôn của Chúa Giêsu là chất liệu tạo nên các thuật ngữ thời hiện đại, ngay cả đối với những người không biết nhiều về Kinh Thánh, khiến cho chúng nằm trong số những câu chuyện nổi tiếng nhất trên thế giới.

Dụ ngôn trong Tin Mừng là xác định lập trường của người nghe chứ không phải các bài học, quanh quẩn tìm các nghĩa từ luân lý. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn Nước Trời để đưa người nghe vào vị thế phải thấy tình trạng của họ, để định ra lập trường của mình. Mục đích chính của dụ ngôn hướng dẫn người nghe về mầu nhiệm nước trời. Trong các dụ ngôn về Nước Trời, Chúa Giêsu dùng đủ mọi hình ảnh: từ người thu thuế đến biệt phái, quan quyền, cày ruộng, người quản lý bất lương, đứa con hoang đàng … là những hình ảnh thường nhật của xã hội Do Thái thời bấy giờ để minh họa. Đặc biệt trong Tin Mừng Luca, dụ ngôn diễn tả tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa với nhân loại và lòng xót thương, tha thứ vô biên của Người vượt khỏi sự mong đợi của con người.


Điều răn lớn (Lc 10, 25-28) và dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành (Lc 10, 29-37).

Một Luật Sĩ muốn thử Chúa Giêsu nên đã hỏi Người: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?”. Chúa Giêsu không trả lời nhưng mời gọi ông ta tự tìm lấy câu trả lời cho bản thân, và ông đã trả lời cách hoàn hảo: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”. Rồi Chúa Giêsu kết luận: “Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Nhưng người này muốn chứng tỏ là mình có lý nên lại đưa thêm câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?” để bắt Chúa Giêsu phải đưa ra một luật rõ ràng giúp ông ta phân loại người khác theo nghĩa “thân cận” và “không thân cận”, người nào có thể trở thành thân cận và người nào không thể trở nên thân cận.

Và Chúa Giêsu trả lời bằng một dụ ngôn, đưa ra cảnh tượng một vị tư tế, một thầy Lê-vi và một người Sa-ma-ri. Hai người đầu tiên là hai nhân vật có liên hệ đến việc thờ tự ở Đền Thờ; người thứ ba là một người Do Thái ngoại giáo, được coi là một dân ngoại, một người không có đạo và không sạch tội, là người Sa-ma-ri. 

Nạn nhân trong dụ ngôn bị kẻ cướp lột sạch, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết dọc đường đi từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô. Thầy tư tế, rồi vị Lê-vi đi ngang qua đều nhìn thấy. Trong những hoàn cảnh tương tự, Luật quy định bổn phận là phải giúp nạn nhân, nhưng cả hai đã tránh sang một bên rồi tiếp tục cuộc hành trình. Họ đang lên Đền Thánh dâng lễ, nếu đụng chạm vào những việc như vậy họ sẽ bị ô uế  và không thể tiến dâng lễ phẩm theo luật dạy!

Người Sa-ma-ri, được đánh giá như dân ngoại, hạng uế tạp, đối xử khác: ông chạnh lòng thương. đích thân chăm sóc người bị nạn, đặt lên lưng lừa chở đến nhà trọ, hôm sau lại đưa 2 quan tiền cho chủ quán trả công chăm sóc, lại còn hứa hẹn sẽ thanh toán thêm nếu thiếu khi quay về. Thật là  một hành động đầy nhân ái và vô vị lợi.

Ở đây ta thấy có sự khác biệt: hai vị kia “thấy”, nhưng tâm hồn họ vẫn khép kín, lạnh lùng nhưng tâm hồn của người Sa-ma-ri thì lại hoà nhịp với tâm hồn của chính Thiên Chúa. Thực ra, “chạnh lòng thương” là một nét đặc trưng thiết yếu của lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chạnh lòng thương chúng ta. Người đau khổ cùng với chúng ta. Người cảm được nỗi đau khổ của chúng ta. Lòng thương cảm có nghĩa là “chia sẻ với”. Từ này chỉ ra một điều gì đó bên trong chúng ta thôi thúc và rung cảm khi thấy bệnh tật, hoạn nạn của một người. Trong những cử chỉ và hành động của người Sa-ma-ri nhân hậu, chúng ta nhận ra hành động đầy lòng thương xót của Thiên Chúa trong toàn bộ lịch sử cứu độ.

Dụ ngôn này cực kì ấn tượng với tất cả chúng ta, và cũng là một sự dấn thân! Chúa Giêsu lặp lại cho mỗi người chúng ta điều mà Người đã nói với vị Luật Sĩ: “Hãy đi và làm như vậy”. Tất cả chúng ta đều được mời gọi để đi cùng một con đường của Người Sa-ma-ri nhân hậu, chính là hình tượng của Đức Kitô: Chúa Giêsu cúi xuống trên chúng ta, tự biến Người trở thành tôi tớ của chúng ta, và do đó Người đã cứu chúng ta, để chúng ta cũng có thể yêu thương như Người đã yêu thương chúng ta.

Cũng vì lòng thương xót mà Thiên Chúa đã đến để gặp gỡ mỗi người chúng ta. Người không phớt lờ chúng ta, Người biết những nỗi sầu khổ của chúng ta. Người biết chúng ta đang cần sự trợ giúp và an ủi biết bao. Người đến gần chúng ta và không bao giờ bỏ mặc chúng ta. Mỗi người trong chúng ta phải nhìn vào trong tâm hồn mình để xem liệu mình có niềm tin vào lòng thương cảm này của Thiên Chúa hay không. Dù chúng ta có từ chối, Người vẫn luôn kiên nhẫn đợi chờ và luôn ở bên chúng ta để chữa lành, chăm sóc.

Tất cả điều này dạy cho chúng ta rằng lòng thương cảm, tình yêu, không phải là một cảm giác mơ hồ, mà nó có nghĩa là quan tâm đến người khác bằng cả con người của mình. Nó có nghĩa là tự dấn thân, đảm nhận hết mọi bước cần thiết để “đến gần” với người khác, đến mức đồng hóa chính bản thân mình với “người ấy”.

Ở phần cuối của dụ ngôn, Chúa Giêsu quay trở về với câu hỏi của vị Luật Sĩ và hỏi ông: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” và ông ta đã trả lời minh bạch: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Ngay từ đầu của dụ ngôn, thầy tư tế và vị Lê-vi đúng ra phải là người thân cận của nạn nhân đang chờ chết nhưng ở cuối dụ ngôn thì chính Người Sa-ma-ri lại là người đến gần. Chúa Giêsu lật ngược cách nhìn: không cần phải phân loại người khác xem ai là người thân cận và ai thì không phải. Ta có thể trở nên thân cận với bất kì ai mà ta gặp trong thực tế nếu ta có lòng thương cảm trong tâm hồn và có khả năng để chịu đau khổ với người khác.


Dụ ngôn con chiên bị mất (Lc 15, 4-7)

Một chuyện hết sức thông thường, tự nhiên: khi có đàn chiên 100 con mà lạc mất một con,  chắc chắn chủ đàn chiên sẽ phải đi tìm và đem nó trở về. Người chủ chiên trong dụ ngôn đã phải bỏ 99 con chiên kia nơi đồng hoang để rong ruổi tìm theo dấu vết con chiên bị lạc. Công việc tìm kiếm vất vả đã không làm cho chủ chiên bực mình khó chịu. Ngược lại khi tìm được con chiên lạc, người ấy mừng rỡ, quàng nó trên vai mình mà đem về. Ðiều này đã diễn tả tình thương chân thật, mặn mà của Thiên Chúa.

Nhưng chưa hết, về đến nhà chủ chiên còn gọi bạn bè, hàng xóm đến mà giãi bày: "Bà con hãy chia vui với tôi vì nay tôi đã tìm được con chiên lạc". Thái độ này trong thực tế hơi quá đáng. Có thể ai đó tìm thấy chiên lạc cũng khoe. Nhưng việc xin bà con hãy vui mừng quả là hơi quá. Tuy nhiên Ðức Giêsu đã cố ý dùng nét quá đáng này để làm chú ý đến điều Người muốn nói: "Cũng vậy, trên trời sẽ có vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là 99 người công chính không cần ăn năn".

Mới nghe qua, ta sẽ nghĩ rằng chủ đàn chiên đó không phải là một mục tử khôn ngoan khi bỏ chín mươi chín con chiên trong đồng hoang mà đi tìm một con chiên lạc. Đồng thời anh ta cũng không thực tế chút nào khi mời bạn bè và hàng xóm đến chung vui vì anh ta đã tìm thấy con chiên lạc.

Nhưng đó là cách Chúa Giêsu biểu lộ tình yêu. Người không tính đến số lượng của sự vật, nhưng với Người, mỗi một vật đều rất quan trọng và đáng để cứu lấy. Ai nấy sẽ rất vui mừng khi một người tội lỗi  trở về. Chúa Giêsu vui mừng đón nhận người tội lỗi ăn năn sám hối hơn là lên án họ, bởi lẽ Người không đến để lên án nhưng là để cứu chuộc.

Vì thế, chúng ta có thể xác quyết rằng mỗi chúng ta đều đáng giá trước mặt Chúa Giêsu. Người sẽ không  để chúng ta lầm đường lạc lối, nhưng bằng mọi giá, Người sẽ đưa chúng ta trở về. Thật vậy, từ cạnh sườn bị đâm thâu trên Thập giá, Chúa Giêsu đã tuôn đổ hồng ân của Người xuống cho chúng ta là những kẻ tội lỗi, và nhờ Hy tế của Người mà chúng ta được trở về với Thiên Chúa.

Dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất (Lc 15, 8-10)

Theo quan niệm Á Đông xưa và có lẽ thời Chúa Giêsu cũng thế: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", phụ nữ không được coi trọng nhưng họ lại được Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để so sánh với chính Thiên Chúa. Đồng tiền bị mất là vì chẳng may, cũng như bao con người sa ngã vì hoàn cảnh chẳng may đưa tới. Người phụ nữ đã thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được vì nó là của bà, cho dẫu bà vẫn còn 9 đồng tiền khác. Khi tìm được, bà còn mời cả bạn bè, hàng xóm đến chung vui với bà.

Giá trị của những vật bị mất không đáng giá nhiều lắm. Một con chiên không có giá trị là bao so với đàn chiên, một đồng bạc cũng không đáng để so với số còn lại. Nhưng đối với người chăn chiên và người phụ nữ trong dụ ngôn, con chiên và đồng bạc bị mất có giá trị đặc biệt. Mỗi người chúng ta cũng thế, dù là những con người vô danh, những tạo vật bé nhỏ trong bảng thống kê nhưng lại có giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa.

Không quản khó nhọc, không sợ nguy hiểm, người chăn chiên đã lặn lội đi tìm con chiên lạc; người phụ nữ cũng thế, đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc đã mất. Niềm vui tìm được những vật đã mất khiến cả hai đã phải chia sẻ, phải lan tỏa ra cho những người chung quanh. Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta là các tội nhân như thế. Cả triều thần Thiên Quốc, tượng trưng cho chính Thiên Chúa, sẽ nhảy mừng khi một tội nhân ăn năn hối cải. Một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, vui mừng và sung sướng khi chúng ta sống đúng theo thánh ý Người. Cả 2 dụ ngôn đều kết thúc bằng câu kết luận của Chúa Giêsu: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.”


Dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc 15, 11-32)

Dụ ngôn người Cha nhân từ cho chúng ta hiểu một số nét của một người cha luôn sẵn sàng tha thứ và hy vọng trong lúc tất cả là tuyệt vọng. Điều đánh động trước tiên, chính là lòng khoan dung của ông trước cái quyết định của đứa con trai út rời khỏi gia đình. Đây là hành động bất hiếu,  bỏ nhà ra đi là cắt đứt mọi mối liên hệ thâm tình. Ông đã có thể phản đối, vì hắn vẫn còn nhỏ tuổi, một đứa trẻ mà lại đòi quyền sở hữu và sử dụng  tài sản ngay khi cha còn sống. Ông có thể tìm một ông luật sư để không chia gia tài cho hắn, bao lâu ông còn đang sống.

Trái lại, ông tôn trọng tự docủa hắn và đã để hắn ra đi trong lúc ông dự kiến được những rủi ro có thể xẩy tới cho hắn. Quả nhiên, hắn đã sử dụng tiền của do công lao vất vả của ông vào việc truy hoan trác táng. Hắn đã thất trung trong việc sử dụng của cải cha ban để làm vốn. Khi của cải thừa kế đem theo đã hết sạch, hắn đành phải đi chăn heo là nghề tội lỗi dân ngoại mới làm. Tất nhiên, ông chủ là dân ngoại và việc này hàm nghĩa là nó đã bị sa vào tay thủ lãnh tối tăm. Nó bị cắt đứt khỏi cộng đoàn dân Thiên Chúa. Hơn nữa nó lại còn ước ao được ăn trộm đồ ăn của heo, là những thứ cơm thừa canh cặn cho no bụng.

Nhưng sau đó nó đã tự tỉnh và nhìn lại chính mình. Trước hết vì cái đói và hồi tưởng lại nhà cha, so sánh tình trạng nông nỗi hiện nay của mình và địa vị tôi tớ ở nhà của cha. Nó đã ở với cha từ tấm bé mà không nhận ra ra hạnh phúc, lòng nhân ái của cha lan tỏa đến tận tôi tớ trong nhà. Tâm trạng hối cải của nó cũng chỉ ao được được ngang hàng với tôi tớ. Hối cải ở đây chưa trọn lành. Chỉ nhớ của cải nhà cha nhưng nó biết nó đã không còn gì. Thiên Chúa cũng làm như thế với chúng ta: khi dựng nên chúng ta, Người đã ban cho chúng ta món quà lớn là sự tự do. Người để chúng ta tự do, kể cả tự do lầm lỗi. Trách nhiệm của chúng ta là xử dụng tốt sự tự do đó.

Nhưng sự xa cách với đứa con chỉ là thể chất; cha hắn luôn giữ hắn trong lòn. Với sự tin tưởng, ông hằng chờ đợi, ngóng trông ra đường với hy vọng được thấy hắn trở về. Và một ngày kia, ông thấy hắn từ xa, khoảng cách không làm đôi mắt già nua lầm lẫn. Nhận ra con, ông tất tả chạy lại - một thái độ không hợp với một ông già khả kính đạo mạo - ôm hắn trong vòng tay và hôn hắn. Trìu mến biết bao! Cái hôn chỉ sự đồng vai vế. Đứa con này đã làm bao điều không phải! Nhưng cha hắn đã đón hắn trở về như vậy.

Hơn thế nữa, ông đã cho nó lại địa vị làm con khi nó xưng thú tội chưa dứt, ra lệnh cho gia nhân đem áo đẹp nhất ra mặc cho hắn. Theo tục lệ phong tặng cho quý nhân vùng Tiểu Á, khi biệt đãi người nào, nhà vua thường ban cho áo quý. Ở đây, áo mới tượng trưng cho thời Cứu Độ. Đứa con khố rách áo ôm trở nên khách danh dự. Tiếp đến, người cha còn trao nhẫn và giày dép: trao nhẫn là dấu chỉ trao quyền chức, giày dép là dấu chỉ của người tự do. Nó lại có quyền làm con, không còn là thân phận nô lệ chân đất. Và trong nỗi vui mừng trước cuộc cải tử hồi sinh của người con “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”, ông đã đi bắt con bê đã vỗ béo chỉ dành cho ngày đại lễ để làm thịt mở tiệc ăn mừng. Trái với nếp nhà vẫn u tĩnh thâm nghiêm, đại lễ của gia đình được tổ chức vui vẻ, có đàn ca múa hát.

Khi người con cả - một người chí thú làm ăn (như những người Biệt Phái thường chăm chút giữ luật) - ngoài đồng về gần tới nhà nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa liền hỏi tên đầy tớ cớ sự. Tên này cũng không hiểu về hành động của ông chủ nên đã bộc bạch "Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ”. Người con cả như được trút thêm dầu vào lửa đã nổi giận và không chịu vào nhà, từ chối không thông phần vào buổi tiệc của gia đình.

Dụ ngôn tiếp tục với sự nhân hậu khoan dung của người cha: ông đã hạ mình, đi ra để thuyết phục người con cả phải vui vẻ đón nhận em mình trở về và nhắc rằng anh ta luôn ở cùng ông và của ông cũng là của anh ta.  

Hình ảnh người cha trong dụ ngôn cho thấy tấm lòng Thiên Chúa. Người là Cha nhân từ, Đấng thông qua Chúa Giêsu, yêu thương chúng ta vô bờ bến, luôn trông đợi sự hối cải của chúng ta mỗi khi chúng ta mắc phải lỗi lầm. Người luôn trông đợi chúng ta trở về khi chúng ta nghĩ rằng mình có thể không cần Người và bỏ đi. Người luôn sẵn sàng mở rộng đôi tay cho dù chúng ta có lầm lỡ cách nào đi chăng nữa. Như người cha trong Tin Mừng, Thiên Chúa vẫn tiếp tục coi chúng ta là con cái của Người khi chúng ta đi lạc và Người đến gặp chúng ta với lòng trìu mến khi chúng ta quay trở lại với Người.

Người cũng thuyết phục chúng ta với nhiều từ tâm khi chúng ta tưởng rằng chúng ta công chính. Những lỗi lầm chúng ta mắc phạm, dù chúng có to lớn đến đâu, cũng không làm rung chuyển được lòng chung thủy của tình yêu thương của Người. Trong bí tích hòa giải, chúng ta luôn có thể bước đi từ đầu. Người đón nhận chúng ta, trả lại cho chúng ta phẩm giá của chúng ta là con cái Người. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được hiểu thêm lòng thương xót vô biên của Chúa. Xin cho chúng ta mau mắn trỗi dậy mỗi lần sa ngã, với niềm xác tín vào lòng nhân hậu vô bờ của Chúa luôn chờ đợi chúng ta trở về với Người.

Tập sống Tin Mừng Luca trong Năm Thánh Lòng Thương Xót của Thiên Chúa qua các bài giảng huấn của cha Linh hướng, nghiên cứu tài liệu và các chia sẻ của các bạn đồng môn … là dịp may hiếm có để bản thân mỗi người nhìn lại chính mình và nhận ra được một số điều bổ ích:

“Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (x. Tv 118,1-29). Vâng, ngẫm lại trong suốt cuộc đời, đã bao nhiêu lần tôi đã quay lưng lại với Chúa dù biết bao ơn lành Chúa đã đổ xuống trên tôi. Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi và tha thứ tội lỗi cho tôi. Dụ ngôn “con chiên và đồng bạc bị mất” (Lc 15, 4-10) cho thấy lòng thương xót của Thiên Chúa thật vô cùng vô tận và Người vẫn không quản công lao khó nhọc để tìm kiếm dù tôi nhiều lần xa đàn, lạc trong tăm tối. Dụ ngôn “người cha nhân hậu”  (Lc 15,11- 32) cho thấy Thiên Chúa chính là người cha nhân hậu, là Đấng giàu lòng thương xót. Người yêu thương tha thứ cho tôi và mặc cho tôi phẩm giá làm người. 

Khi đã được thanh tẩy bằng nước qua Bí tích Rửa Tội, con người được giải thoát khỏi tội tổ tông nhưng hậu quả của tội lỗi vẫn làm mọi trật tự nơi vũ trụ, nơi con người bị xáo trộn. Và chính vì Lòng Thương Xót, Chúa Giêsu Phục Sinh đã thiết lập ra Bí Tích Hòa Giải, một trong những bí tích vĩ đại về Lòng Thương Xót của Người. Nhưng bao nhiêu năm tôi đã thờ ơ, ngại ngùng và hẹn lần hẹn lữa để rồi khi buộc phải đi xưng tội hàng năm theo luật định, một số tội lỗi đã âm thầm rơi vào quên lãng.

Thánh Phaolô đã cảm nhận rất sâu sắc: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” (Rm 7,19). Con người không làm chủ được bản thân của mình. Lý trí báo cho tôi biết là điều ấy không đúng, không được làm, nhưng ý chí không còn vâng phục lý trí nữa mà sẵn sàng dấn thân vào điều xấu.

Trước mặt Thiên Chúa ai cũng giống ai, tất cả đều là tội nhân; nhưng khác một điều là người tội nhiều hay ít, kẻ tội này người tội kia. Khi càng lớn tuổi, chức càng cao, quan hệ rộng thì cạm bẫy kéo theo cũng nhiều bấy nhiêu và vì thế bản thân sẽ rất dễ dàng vướng vào tội lỗi. Từ đó dễ nhận ra càng làm lớn thì càng dễ gặp những thử thách cám dỗ và như vậy có khi tội càng nặng hơn!

Khi đã sống trong lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa qua Bí Tích Hòa Giải, bổn phận của chúng ta là phải biết đem lòng nhân từ đó của Người đến cho tha nhân, cho hàng xóm láng giềng của chúng ta. Nhưng nhiều lúc tôi đã lí luận rằng hiện nay thật giả khó lường. Tôi muốn giúp đỡ những người nghèo khó nhưng không biết ai đích thực nghèo khó, thôi thì đành giả lơ cho lương tâm khỏi cắn rứt. Bao nhiêu lần vì mệt mỏi, hoặc vì vô tình, vì ích kỷ hoặc vì sợ hãi, tôi đã nhắm mắt, tôi không muốn nhìn thực tại. Tôi không muốn can dự, không muốn dấn thân sâu xa và tích cực vào đời sống và những nhu cầu của anh em gần xa của tôi.

Truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là lấy chữ nhân, tức con người làm gốc. Cho đến nay, lời cổ nhân vẫn thường khuyên nhủ chúng ta phải “thương người như thể thương thân”. Thương thân là thương chính bản thân mình. Khi đói không cơm ăn, khi lạnh không có áo mặc, khi ốm đau không có thuốc uống và không ai chăm sóc… lúc đó ta mới cảm nhận được mình rất thương bản thân mình. Hơn thế nữa, chính khi thương xót, quan tâm, chia sẻ và sẵn sàng giúp đỡ mọi người chung quanh, ta sẽ thấy được lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa qua dung mạo của Chúa Giêsu.

Trong Thư kêu gọi cứu trợ nạn nhân bão lụt miền Trung VN ngày 18/10/2016, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã kêu gọi Cộng đồng Dân Chúa tại VN và hải ngoại cùng chung tay góp sức giúp đỡ đồng bào lâm nạn vượt qua khó khăn vì “Đây là cơ hội quý báu để chúng ta khám phá dung mạo của Chúa Giêsu nơi tha nhân theo tinh thần của ĐTC Phanxicô trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Hơn bao giờ hết, Chúa Giêsu nơi người anh em cùng quẫn đang từng ngày từng giờ chờ đợi chúng ta đến cứu vớt.”

Họ còn là những người già yếu cô đơn và các bệnh nhân sống trong bệnh tật đau khổ, không người thân gần gũi. Hãy đến chăm sóc, an ủi và mang Lời Chúa đến với họ. Tạo cho họ có cơ hội được rước lễ hoặc tham dự Thánh lễ và kinh nguyện cộng đoàn. Họ có thể là những người đang bị giam cầm, là những người bị giới hạn sự tự do, đang chịu hình phạt vì những tội xúc phạm đến tôi người. Lòng từ bi thương xót của Chúa có thể biến đổi tâm hồn họ. Hãy hiệp thông cầu nguyện để họ cũng được hưởng nhờ Lòng Thương Xót của Chúa mỗi khi họ nghĩ đến và cầu nguyện với Thiên Chúa.

Trong mầu nhiệm các Thánh thông công, chúng ta cũng vẫn liên kết với những người đã qua đời với đức tin và đức ái mà họ đã để lại cho chúng ta. Trong tháng cuối của niên lịch phụng vụ, chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh hồn khi tham dự Thánh Lễ, khi viếng nhà thờ, nghĩa trang …để khuôn mặt đầy lòng thương xót của Chúa Cha giải thoát mọi tàn dư tội lỗi họ đã phạm, và cánh tay nhân từ của Người ôm chặt lấy họ trong cõi phúc đời đời.


Năm Thánh Lòng Thương Xót 2016 sắp qua đi nhưng lời mời gọi chúng ta trở về giao hòa với Thiên Chúa để làm mới lại cuộc đời vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta hãy luôn trở về với Thiên Chúa để nhận ra con người thật của mình, tôn vinh Lòng Thương Xót của Thiên Chúa để được yêu thương hướng dẫn, để rồi không còn buông thả theo những đam mê trần tục tầm thường.

Xin viện dẫn lời của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II để kết thúc đề tài: "Tương lai của nhân loại trên mặt đất này sẽ ra sao? Chúng ta không được biết. Tuy nhiên, con người có thêm tiến bộ thì không may cũng không thiếu kinh nghiệm đớn đau. Nhưng ánh sáng của lòng thương xót Chúa sẽ chiếu sáng đường đi cho con người trong thiên niên kỷ thứ ba. Người cũng cho rằng chỉ khi nào con người cảm nhận được lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa dành cho nhân loại thì con người mới có thể ‘nhìn vào anh chị em của mình với đôi mắt mới, với thái độ vị tha và liên đới, đại lượng và tha thứ’".


http://thanhlinh.net/node/109061

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2016

CẦU HỒN THAY HALLOWEEN


Những ngày cuối tháng 10, trên các phương tiện truyền thông đại chúng, người ta đưa những tin liên quan đến việc chuẩn bị cho lễ hội Halloween. Nào là những biểu tượng, trò chơi, nào là những trang phục quái lạ và nghệ thuật trang điểm khuôn mặt quái dị như những thây ma đang bị thối rữa ….

Halloween là từ rút gọn của “All Hallows Eve” trong tiếng Anh, nghĩa là “đêm trước ngày Lễ các Thánh”. Trước thế kỷ X, dân Celtic ở Tây Âu mừng ngày đầu năm mới vào ngày 1 tháng 11 bằng việc tổ chức lễ hội đình đám và đêm trước đó là những nghi thức tưởng nhớ những người đã khuất.

Nhưng thực ra việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho người đã chết đã có từ thời Cựu Ước (x. 2 Macabê 12,44-46) và vẫn được duy trì trong thời Tân Ước; khi cộng đoàn các tín hữu họp nhau cử hành nghi thức bẻ bánh và cùng nhau nghe lại những câu chuyện sống đạo anh hùng của các thánh tử đạo.

Dần dần, các cộng đoàn mở rộng việc tưởng nhớ đến những tín hữu đã tử vì đạo nhưng không được biết tới, và đến những tín hữu là chứng nhân sống Tin Mừng nhưng không tử đạo.

Vào năm 835, Giáo Hội Công Giáo đã quy định lấy ngày 1 tháng 11 hàng năm là ngày Lễ kính các Thánh nam nữ và ngày hôm sau là Lễ cầu cho các linh hồn để nhắc nhở tất cả các tín hữu, còn sống hay đã chết, có công trạng hay không đều được hợp nhất với nhau trong một Nhiệm Thể Chúa Kitô.


Khi phong trào Cải Cách bắt đầu vào thế kỷ XVI, những người Tin Lành đã bác bỏ tín điều các Thánh thông công và tập tục cầu nguyện cho người chết. Từ đó, ngày vọng Lễ các Thánh (Halloween) đã mất dần ý nghĩa nguyên thủy của nó.

Halloween đã biến thành một lễ hội trần tục và bị thương mại hóa. Lễ hội đã mất đi tính thánh thiêng và những người tham dự lễ hội không còn biết đến những vị thánh tốt lành, những mối tương quan gắn bó giữa người sống và người chết.

Lễ hội Halloween ngày nay đã biến tướng thành những hình thức ăn chơi mang dáng dấp của những trò ma thuật hay những tập tục mê tín dị đoan về người chết. Vài năm trở lại đây, lễ hội này cũng đã du nhập vào Việt Nam và được nhiều người đón nhận, nhất là các bạn trẻ đang tập tành lối sống phương Tây.

Người Việt Nam thường lấy chữ hiếu làm trọng, nhà có người qua đời được gọi là “nhà hiếu”. Chữ hiếu cũng đã được cha ông ta nâng lên thành đạo: Đạo Hiếu. Đạo Công Giáo cũng luôn nhắc các tín hữu hãy nhớ công sơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên. Trong kinh Mười điều răn, điều răn thứ bốn buộc các Kitô hữu phải thảo kính cha mẹ và kinh Thương linh hồn bảy mối cũng khuyên răn ta phải cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết.

Trong các bậc tổ tiên, có những vị đã biết đưa tinh thần Tin Mừng vào cuộc sống đời thường. Các Ngài dám chiến đấu quên thân để chiếm hữu được Chúa và lập nên những công trạng được Giáo hội tôn vinh lên bậc hiển Thánh. Cũng có những vị âm thầm sống hiền hòa, bác ái, vị tha, tín thác vào tình thương của Thiên Chúa mà chỉ có Chúa mới biết và ân thưởng. Cũng có những vị tuy đã sống cuộc đời Kitô hữu nhưng cũng còn có những thiếu sót do yếu đuối và thân phận bất toàn.

Giáo huấn của đạo Công Giáo cho biết có thiên đàng để thưởng người lành, có địa ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các linh hồn còn vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết. Các linh hồn chính là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người thân … trước đó đã từng sống kiếp làm người với những tội lỗi như chúng ta. Họ là những người đã ra đi trước chúng ta để trở về nơi mà họ đã được Thiên Chúa tạo dựng từ bụi đất.

Nơi đó họ không còn khả năng lập công chuộc tội và trông chờ vào chúng ta là những người còn sống. Nhưng thường thì người sống thường hay quên kẻ chết vì không còn dịp gặp mặt; có chăng chỉ là những ngày giỗ, tết. Khi thực hiện mầu nhiệm tín điều các Thánh cùng thông công, có lẽ không gì quý hơn là chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn. Khi cầu nguyện cho họ là ta thể hiện lòng biết ơn, tinh thần hiệp thông, liên đới trong đức ái.

Vì thế, đạo Công Giáo dành trọn tháng 11 hằng năm, là tháng cuối cùng trong niên lịch phụng vụ, để cầu nguyện cho các linh hồn đồng thời để nhắc nhở chúng ta nhớ đến những ngày cuối cùng của thế giới và của mọi người chúng ta. Trong tháng này, nhiều hoạt động mang tính hiếu nghĩa được các Kitô hữu thực hiện như: xin lễ cầu cho ông bà tổ tiên, viếng nghĩa trang, chỉnh trang những ngôi mộ cho mới hơn ...


Hãy bình tâm để đừng sa đà vào một lễ hội còn xa lạ, có lẽ không phù hợp với truyền thống dân tộc và người Kitô hữu chúng ta. Thay vào đó hãy dùng những lời kinh, tiếng hát để cầu nguyện cho các linh hồn được đón nhận trong tình thương của Thiên Chúa. Với tín điều các thánh cùng thông công, chúng ta tin tưởng các linh hồn luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta như Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Những kẻ Cha đã ban cho con, con muốn rằng con ở đâu thì họ cũng ở đấy với con”.

Tháng các linh hồn 2016

Đã đăng trên:

Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2016

NÊN NHƯ TRẺ NHỎ


Khi những chiếc đèn lồng xanh đỏ lung linh trong các quán xá bên đường và những tiếng trống lân thì thùng vang lên báo hiệu một mùa Trung thu nữa lại đến, ước mơ được trở lại tuổi thơ như một chút chấm phá tràn về trong kí ức lãng đãng của mỗi người.

Ai trong đời chả có đôi lần từng mong ước cho thời gian quay trở lại. Không phải chỉ vì tiếc nuối mà đôi khi chỉ vì muốn nhìn lại chính mình thuở ấy với nụ cười hồn nhiên và ánh mắt ngây thơ trong sáng.  

Nhớ lắm những đêm nằm trên chiếc chõng tre trước sân nhà ngửa mặt ngắm nhìn một bầu trời đầy sao lấp lánh và ước mơ mình có thể vươn tay chạm vào. Nhớ những đêm trăng nằm nghe mẹ kể chuyện và ngủ thiếp đi với chị Hằng Nga xinh đẹp, chú thỏ ngọc trắng muốt và chú cuội hay nói dối phải ngồi dưới gốc đa “để trâu ăn lúa gọi cha ời ời” ...

Nhưng rồi ai cũng phải lớn lên và khi người ta lớn, cái tôi cũng lớn lên theo. Nó như những giọt mưa thấm dần và lan tỏa thành niềm kiêu hãnh của riêng mỗi người. Người ta không còn nhìn đời với cặp mắt vô tư và nhận ra cuộc sống không phải lúc nào cũng êm trôi đơn giản. Không phải lúc nào nhìn lên thì trời cũng trong xanh, nhìn xuống thì đất nở hoa rực rỡ. Có những lúc trời quang mây tạnh và có những lúc trời đen mây phủ cả vầng trăng dù đó là tiết đêm rằm tháng Tám.


Khi ấy, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào." Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng. (Mc 10, 13-16)

Trái ngược với quan niệm coi khinh trẻ em (do chúng chưa biết lề luật) của người Do Thái. Đức Giê-su đã tỏ thái độ bực mình khi các Tông đồ ngăn cản không cho các trẻ em đến với Ngài và đã dạy cho các ông bài học nhớ đời: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”.

Ngoài việc giáo huấn cho các môn đệ về sự chân thành, đơn sơ cần có. Đức Giê-Su còn chỉ dẫn cho chúng ta cách đối nhân xử thế với tâm hồn trẻ thơ để được vào Nước Trời: sống thành thật, ngay thẳng: không gian tham, hối lộ; chớ vu oan, giá họa; không cướp của, giết người…

Ở một trình thuật khác khi trả lời cho câu hỏi “Ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” của các môn đệ, Ngài đã nhấn mạnh "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời”. (Mt 18, 3-4).

Chúng ta thường hiểu “trở nên như trẻ nhỏ” là phải hồn nhiên, ngây thơ và trong trắng. Nhưng cái cây đã lớn rồi thì không thể nào non trẻ lại, con người đã lớn thì không thể trở về với tuổi thơ. Lứa tuổi đã trải qua nhiều “sân, si, hỉ, nộ, ái, ố” thì không thể nào lột xác như con rắn để trở nên hồn nhiên, ngây thơ và trong trắng như trẻ em được.


Trở nên như trẻ nhỏ là luôn sống tốt trong mối quan hệ giữa người với người theo chiều kích xã hội. Trẻ em không thể tự mình đón nhận sự sống, nhưng từ những người khác, nhất là những người thân yêu. Trẻ em hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi ông bà cha mẹ, luôn vâng lời mà không cần băn khoăn suy nghĩ xem tại sao.

Sâu xa hơn là quan hệ giữa con người và Thiên Chúa. Trở nên như trẻ nhỏ là sống ơn gọi làm con của Thiên Chúa vì chúng ta đã được thanh tẩy trong máu của Chúa Giê-su qua cái chết thập giá của Ngài. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của con người mới sống đơn sơ, phó thác trong cánh tay quan phòng của Thiên Chúa.

Trở nên như trẻ nhỏ còn là sống bản chất hiền lành, thật thà vốn có trong cõi lòng chúng ta giống như Đức Giê-su luôn mời gọi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, dù chúng ta là ai, ở độ tuổi nào và có chức vụ gì.

“Nhân chi sơ, tính bản thiện”, con người sinh ra bản tính ban đầu vốn thiện và tốt lành, khi lớn lên bị nhiễm những thói quen do hoàn cảnh môi trường xã hội nên mất dần bản tính ấy. Vì thế cần phải chuyên cần tu sửa bản thân để duy trì bản tính thiện của trẻ thơ có trong ta để có thể đón nhận cuộc sống trường sinh đích thực. 

Nước Thiên Chúa dành cho những ai có tâm hồn đơn sơ không suy tư tính toán, đồng thời khiêm hạ tự biết mình tùy thuộc vào Thiên Chúa và các mối liên quan hỗ tương với người khác. Khó có thể được đón nhận vào Nước Trời nếu thiếu niềm tin nơi Thiên Chúa và không cùng tương tác, chia sẻ với tha nhân.

Thế nhưng con người vốn dĩ yếu đuối, bất toàn nên chúng ta hãy cứ vui sống đơn sơ phó thác như trẻ nhỏ và đi hết cuộc đời này trong cánh tay quan phòng của Thiên Chúa.


Lạy Thánh Tâm Chúa Giê-su, Chúa đã mặc khải Nước Trời cho những người đơn sơ, bé nhỏ và luôn mời gọi chúng con sống “hiền lành và khiêm nhường”. Xin cho chúng con luôn trở thành tấm gương sáng cho trẻ em noi theo và học được những bài học đơn sơ, phó thác giống các em để luôn vững tin trên hành trình tiến bước vào Nước Trời chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa. Amen.
Mùa Trung Thu 2016


Đã đăng trên: