Người sính chữ thường dùng từ “ẩm thực” (Hán-Việt) để chỉ
việc ăn uống cho đỡ vẻ “phàm phu tục tử”. Ăn và uống có mối liên hệ mật thiết
với nhau. Người ta có thể dùng một thúc uống nào đó khi ăn và khi uống (nhất là
những thức uống có chất men) nhiều lúc cũng phải kèm theo ăn. Tuy vậy không
phải hễ cứ ăn là phải uống mà không phải lúc nào uống cũng phải kèm theo ăn.
Ngày xưa, người Việt ta đa phần là nông dân sống nhờ vào
những sản vật có từ đất nên luôn phải đối mặt với cái đói triền miên. Thức ăn
chủ yếu chỉ có cơm với rau, con tôm con tép, con cua con cá thu lượm được ngoài
đồng cùng với mắm muối tương cà hầu như nhà nào cũng muối sẵn. Bữa cơm những
năm đói kém, mất mùa còn phải độn thêm ngô, khoai, sắn. Mâm cao cỗ đầy, rượu
nồng thịt béo chỉ có trong những ngày giỗ, ngày tết hay trong các cỗ tiệc của
những kẻ giàu sang quyền quý.
Đồ uống thường không được dùng kèm trong các bữa cơm của
người Việt xưa. Có chăng chỉ là bát nước rau luộc vắt chanh, hoặc khá hơn thì
là canh rau, canh cá, canh thịt… Có người nghèo bữa cơm chỉ là bát cơm trắng ăn
với nước tương, dưa muối. Thế là qua bữa, nếu khát chỉ cần bước ra đầu hè làm
một gáo nước mưa đựng sẵn trong lu.
Trong bữa cơm chiều của một số gia đình tương đối khá giả, người
cao tuổi trong nhà như ông hay ông bố có thể uống thêm ly rượu trắng hoặc chén
rượu thuốc để cho “khí huyết lưu thông, giãn gân cốt” sau một ngày làm lụng vất
vả. Rượu được coi như là thứ thuốc bổ dành cho người cao tuổi, lao động chính trong
nhà hoặc khi có khách.
“Cỗ không có rượu, như kiệu không có cụ”. Trong những dịp
giỗ chạp, cưới xin, ma chay, lễ tết hoặc trong dịp đình đám trong làng, người
ta thường uống rượu để hỗ trợ cho bữa ăn thêm thi vị. Nhờ uống chút ít mà người
ta có thể tạo được một bầu khí vui vẻ, cởi mở và thân mật. Ngoài rượu không hề có
những loại đồ uống khác dành cho đàn bà và trẻ em hay những người không biết
uống rượu trong các bữa cỗ ấy.
Việc uống rượu của người xưa là cả một nghệ thuật. Cạn với
nhau một chén rượu là để tăng thêm chất men trong câu chuyện của những người
tri kỷ. Nhấp một chút men say là để tăng thêm thi hứng cho những lúc thi ca xướng,
họa. Cụng với nhau một ly để mừng vui cho ngày gặp mặt hoặc là lời chúc trước
lúc đi xa. Đó là một dạng sinh hoạt văn hoá ẩm thực đã có từ nghìn xưa.
Thế nhưng hiện nay, nhiều người đã và đang làm biến tướng đi
tính văn hoá vốn có của nó. Ẩm thực đã trở thành “ăn nhậu” hay gọi một cách đơn
giản và bình dân là “nhậu”. Ở nhiều nơi, từ nông thôn đến thành thị bất kể giàu
sang nghèo khó. Hễ có việc gì làm ăn hay gặp gỡ, hội họp là phải có nhậu kèm
theo. Người ta thi nhau, ép nhau uống bia, rượu. Không uống là không chân tình,
không thật lòng. Uống cho "tới bến" cho đến say tràn cung mây mới
thôi.
Họ thản nhiên ăn nhậu dẫu biết rằng đó là một sự tốn kém cho
ngân quĩ vốn dĩ đã eo hẹp của gia đình trong cái thời buổi khó khăn, gạo
châu củi quế thời kinh tế thị trường. Họ không cần biết số tiền phải trả cho những
lon bia mà họ vừa uống vừa đổ một cách thừa mứa trong cơn ngà ngà say có thể
nuôi sống cả một gia đình hàng tuần. Họ vô tư không biết rằng có hàng trăm
người nghèo đang cần sự giúp đỡ ...
Nhưng đâu phải chỉ là vấn đề tiền bạc. Ở những độ nhậu lắm
bia nhiều rượu hẳn những người có chút văn hoá rất lấy làm khó chịu khi nghe
những lời tâng bốc nhau, gài nhau uống đại loại như: “nam vô tửu như kỳ vô
phong”, "không say không về", hoặc quyết liệt hơn: "chú không
uống hết ly này là không tôn trọng anh", "bác không cạn ly là không
hết lòng với anh em", … Vậy là việc “tôn trọng, hết lòng” với nhau giờ đây
đã bị biến thái để được đo bằng ''tửu lượng'', của anh, của chị nhiều hay ít.
Thế rồi, “tửu nhập ngôn xuất”. Những thứ “rượu vào lời ra” trong
các độ nhậu thường biến hóa muôn mầu, muôn vẻ. Có anh mượn chút hơi men để có
đủ can đảm bày tỏ chính kiến của mình nhưng cũng có kẻ mượn hơi men để khích
bác, đâm bị thóc thọc bị gạo gây mầm mống chia rẽ bất hòa trong cộng đồng, đoàn
thể.
Có những người bình thường tính tình dễ dãi, hiền lành như
cục đất. Nhưng khi chén chú chén anh vào lại trở nên cố chấp, lớn tiếng khăng
khăng bảo vệ ý kiến của mình, quyết tâm ăn thua đủ với anh em. Lại có kẻ khi
say hay chửi xéo người này người nọ, đôi khi chửi cả bề trên và những người họ
hàng thân thích, khiến cho tình nghĩa ruột thịt cũng như lối xóm nhiều lúc như
muốn đứt đoạn. Đến khi tỉnh rượu mới hối lỗi thề thốt quyết tâm bỏ rượu nhưng
rồi lại chứng nào tật ấy.
Thế nên cụ Tản Đà mới có câu:
Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thời hư vậy, say thời cứ say.
Hay như cụ Nguyễn Khuyến cũng thú nhận :
Những lúc say sưa cũng muốn chừa,
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
Hay ưa đến nỗi không chừa được.
Chừa được mà ông cũng chẳng chừa.
Những ngày đầu Xuân, chúng ta thường thăm viếng, chúc Tết
lẫn nhau. Đương nhiên gặp nhau phải có ăn uống vì ngày thường “khách đến nhà
không trà thì rượu” huống chi là ngày Tết với rượu thịt ê hề, lòng xuân phơi
phới. Tuy nhiên, như các học giả thời Trung cổ
thường nói: “virtus in medio stat” (nhân đức bao giờ cũng phải ở vào cái thế
trung dung), phàm cái gì thái quá thì cũng bất cập.
Hãy tiết độ khi vui Xuân vì ăn nhiều quá sẽ sinh ra bội
thực, rồi từ chỗ bội thực lại sinh ra bệnh nọ tật kia. Còn uống nhiều quá
thì sinh ra “say xỉn quậy tới bến” như người ta thường nói “tửu nhập tâm
như hổ nhập lâm” hoặc “tửu nhập tâm như cẩu cuồng tọa thị”!
Với người Công giáo chúng ta, ngày
mùng Ba Tết Bính Thân năm nay lại trùng vào ngày thứ tư Lễ Tro, ngày bắt đầu
mùa Chay Thánh theo niên lịch phụng vụ. Nhiều người có cảm giác tiếc nuối vì
không được hưởng Xuân trọn vẹn dù Hội Đồng Giám mục Việt Nam cho phép dời
việc ăn chay kiêng thịt vào thứ Sáu 12 Tết.
Mục đích truyền
thống của mùa Chay là việc chuẩn bị của các tín hữu qua việc chay tịnh, sám hối, ăn năn tội lỗi, cầu nguyện và thực hành bác ái từ thiện.
Trong Thông
Điệp Mùa Chay 2016 mới đây, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi: “Mùa Chay trong Năm
Thánh này là thời gian thuận tiện để ta vượt thắng sự tha hóa hiện sinh của ta
bằng cách lắng nghe lời Thiên Chúa và thực hành các việc thương người. …Các
việc thương người về phần xác và phần hồn không bao giờ nên bị tách biệt
với nhau.”
Thư Mục vụ Mùa Chay – Phục
Sinh của Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc cũng mời gọi Mùa Chay năm nay phải
là “Mùa Chay Thánh Thiện” vì
“Thiên Chúa giàu lòng thương xót” chính là “Đấng
Thánh, là nguồn mọi sự thánh thiện”. Muốn là Mùa Chay thánh thiện, phải là
Mùa Chay có nhiều hy sinh và hãm mình trong cuộc sống hằng ngày.
Xin Thiên Chúa là Cha Lòng Thương Xót giúp chúng ta biết hy
sinh và hãm mình trong việc ẩm thực. Uống bớt đi một vài lon bia, chai rượu; ăn
ít đi những chén thịt đầy… để chia sẻ bớt cho
người nghèo, cho kẻ thiếu thốn. Hãy mở lòng thương xót để mùa Xuân yêu thương
hôm nay sẽ dệt nên mùa Xuân hạnh phúc mai sau trên Thiên đàng trường Xuân bất
diệt.
Xuân Bính Thân
2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét