Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2016
CHÚT TÂM TÌNH THÁNG HOA DÂNG MẸ
Đức Bà thờ Chúa một bề,
Nhiệm thay hoa đỏ hồng hồng,
Xinh thay hoa trắng tốt lành,
Quí thay này sắc hoa vàng
Dịu thay hoa tím càng màu.
Lạ thay là sắc hoa xanh.
LAO ĐỘNG
Tháng Năm với những ngày nắng gay
gắt, nóng như nung vẫn chưa vơi. Những cơn mưa chờ đợi vẫn chưa thấy tới và
tình hình khô hạn, xâm nhập mặn tại Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên Việt Nam vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện. Thời tiết đã
thực sự gây khó khăn cho cuộc sống và sản xuất của những người lao động, đặc
biệt là những người phải làm việc nhiều
dưới ánh mặt trời. Biết thế nhưng ngày ngày người ta vẫn phải gồng mình lao
động đổ mồ hôi để biến đổi các vật chất tự nhiên thành của cải vật chất cần
thiết cho cuộc sống của mình.
Nhiều quốc gia đã đồng tình dành
ngày đầu tiên của tháng Năm làm ngày Quốc Tế lao động để tỏ lòng biết ơn và tôn
vinh những người lao động. Giáo Hội Công giáo cũng luôn đòi hỏi và đề cao công
bình xã hội cho giới lao động. Năm 1955, Đức Thánh Cha Piô XII đã tuyên bố quan
điểm của người Công giáo về ngày Lễ Lao Động, và tuyên xưng Thánh Giuse Lao
Động là Ðấng Bảo Trợ giới lao động thợ thuyền.
Năm nay, ngày Quốc Tế lao động rơi
vào Chúa Nhật Thứ VI Phục Sinh nên Giáo hội không cử hành Phụng vụ lễ Thánh
Giuse Thợ. Theo Tin Mừng, Thánh Giuse sống ở Nagiarét, làm nghề thợ mộc để nuôi
sống bản thân và phụ giúp Đức Maria nuôi dưỡng Đức Giêsu. Trong bối cảnh gia
đình Nagiarét, việc lao động của thánh Giuse đã nằm trong kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa. Bởi vì việc Chúa Giêsu nhập thể làm người cũng cần có những nhu cầu
vật chất như bao con người.
Thiên Chúa đã muốn con người
cùng lao động trong chương trình sáng tạo của Người. Sau khi thiết lập vũ trụ,
Người cho con người quyền làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò
trên mặt đất với lời chúc lành sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất (x.
St 1,28). Và trước khi con người sa ngã, “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người
đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai.” (St 2,15).
Nhưng cũng giống như nguyên tổ
loài người xưa kiêu ngạo, muốn làm cho mình được tinh khôn nên đã ăn trái cấm
vì vậy con cháu đã phải cực nhọc đổ mồ hôi trán mọi ngày trong đời mới kiếm
được miếng cơm manh áo (x. St 3,17-19). Có một thời, người ta quá đề cao một
vài thành tựu có được do sức lao động và khoa học kỹ thuật với những tên gọi,
khẩu hiệu cao ngạo đại loại như “bình trị thiên, có sức người sỏi đá cũng thành
cơm …”. Đành rằng lao động là vinh quang, nhưng đằng sau cái vinh quang đó là
biết bao gian khổ nhọc nhằn đầy ắp những giọt mồ hôi nước mắt, có khi là máu và
thậm chí là mạng sống con người.
Kinh Thánh cũng rất nghiêm khắc
với sự ở không, biếng nhác lao động. Kẻ lười biếng sẽ không có gì để ăn và có
nguy cơ chết đói (x. Cn 13,4 và 21,25), thánh Phaolô cũng không ngần ngại nói
thẳng với những người ngán ngẩm lao động: “ai không chịu làm thì cũng đừng ăn!”
(2 Th 3,10). Với dân tộc Việt Nam, cha ông ta cũng đã rút ra được những bài học
kinh nghiệm thực tiễn để lại trong kho tàng ca dao: “Tay làm hàm nhai, tay quai
miệng trễ” hoặc “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ mang phần đến cho”.
Trong xã hội, mỗi người đều phải
có nghĩa vụ đóng góp những sản phẩm do công sức lao động của mình làm ra vì một
mình ta không thể đáp ứng được tất cả những nhu cầu của bản thân. Hưởng dùng
của cải vật chất do công lao của người khác làm ra là ta đã mắc nợ và đến lượt
ta phải trả nợ với đời. Nhưng từ xưa đến nay (và có lẽ mai sau) vẫn còn có
những kẻ “không gieo mà gặt, ngồi mát ăn bát vàng …”. Trên các trang báo,
truyền hình và các phương tiện truyền thông người ta đã đưa lên nhiều thủ đoạn
tinh ranh, xảo quyệt nhằm chiếm đoạt tài sản, của cải vật chất của người khác.
Ngược lại, một vấn đề vẫn gây
nhức nhối cho xã hội hiện nay là thực trạng lao động nhiều nhưng việc làm phù
hợp thì ít. Năm nào cứ đến mùa tuyển sinh, tốt nghiệp thì người ta lại khơi lên
những con số không ít các lao động trẻ với những tấm bằng tốt nghiệp trong tay
không tìm được việc làm hoặc phải làm những việc không phù hợp với ngành nghề
được đào tạo. Và cái vòng lẩn quẩn ấy cứ thế xoay đều, không có việc làm thì
“nhàn cư vi bất thiện, đói bụng đầu gối phải bò” bằng mọi cách!
Chắc hẳn Đức Giêsu cũng đã phải
vất vả phụ giúp và tiếp nối công việc của cha Giuse để lo việc kinh tế trong
gia đình với Mẹ Maria. Nhưng Người đã nâng lao động lên tầm giá trị cao hơn khi
tuyên bố với đám đông dân chúng đi tìm Người sau khi được ăn bánh no nê: “Các
ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương
thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban
cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác
nhận." (Ga 6,27).
Trong ngày Quốc Tế lao động và khai
mạc tháng hoa kính Đức Mẹ, chúng ta hãy cầu nguyện và noi gương bắt chước Thánh
Giuse cùng Mẹ Maria trong gia đình Nagiarét xưa: sống và lao động theo đúng ý
nghĩa là góp phần làm vinh quang cho Thiên Chúa qua sự sáng tạo vũ trụ, con
người.
Xin cho mọi người lao động không
chỉ làm một cách máy móc, chiếu lệ, qua loa cho mau hết giờ để kiếm nhiều lợi
ích, tiền của cho bản thân; nhưng mang một ý nghĩa cứu độ và phục vụ, lao động
theo lời mời gọi của Thiên Chúa.
Xin cầu nguyện cho mọi người lao động đều có công ăn việc
làm xứng đáng với địa vị và khả năng của mình để làm vơi bớt đi những bất công
và gánh nặng cho xã hội. Xin cho mọi thành quả lao động của con người
được như của lễ đẹp lòng dâng lên Chúa với lòng biết ơn cảm mến chân thành.
Đã đăng trên:
Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2016
BÍ TÍCH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
Năm 2000, Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II trong bài giảng ngày lễ phong thánh Thánh nữ Maria Faustina đã
chính thức công bố Chúa nhật II Phục sinh sẽ được gọi là Chúa nhật kính Lòng
Thương Xót Chúa. Ngài đã mô tả về Ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa như sau:
“Theo một cách đặc biệt, đây là ngày Chúa Nhật dành để tạ ơn về lòng thương xót
mà Thiên Chúa đã tỏ ra cho chúng ta trong suốt mầu nhiệm Phục Sinh của Người”.
Ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót
Chúa cũng chính là Ngày Thứ Tám (Octave Day) của Mùa Phục Sinh như là cách thức
để đưa chúng ta đến sự hiệp thông trọn vẹn vào việc Đức Giêsu Phục Sinh. Ngày Lễ này như là một sự hội tụ tất cả các lăng kính
vào trong ánh sáng của Chúa Giêsu Phục Sinh. Từ đó tỏa chiếu ra
từng tia sáng chói lọi cao vời về tình yêu thương nhân từ và ân huệ của Thiên
Chúa cho toàn cả thế giới thông qua sự chiến thắng của Thiên Chúa Phục Sinh
trên tội lỗi, sự chết và ma quỷ.
Việc chọn ngày Chúa Nhật thứ
nhất sau lễ Phục Sinh làm ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa có một ý
nghĩa sâu xa, cho thấy mối dây liên lạc mạnh mẽ giữa mầu nhiệm Phục Sinh của
việc Cứu Chuộc và mầu nhiệm Lòng Thương Xót Chúa. Thật vậy, các bài đọc của ba
năm phụng vụ trong ngày Chúa Nhật này đều dành để nói về lòng thương xót của
Thiên Chúa.
Chiều ngày thứ nhất
trong tuần sau khi chịu chết và được mai táng, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện đến giữa các môn đệ vốn đang còn bàng hoàng, lo âu vì
những biến cố dồn dập xảy ra. Người cho các ông xem tay và cạnh sườn và nói nói
với các ông: "Bình an cho anh em!
Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người
thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em
tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (x. Ga 20,19-31).
Đoạn Tin Mừng trên mô tả việc
Chúa Giêsu Phục Sinh thiết lập ra Bí Tích Hòa Giải, một trong những bí tích vĩ đại về
Lòng Thương Xót của Người. Tội lỗi đã làm con người xa rời Thiên Chúa: Ađam sau khi
phạm tội thì lẩn tránh cái nhìn của Người, không dám gặp dù Người đích thân đến
tìm ông. Khi đã được thanh tẩy bằng nước qua Bí tích Rửa Tội, con người được
giải thoát khỏi tội tổ tông nhưng hậu quả của tội lỗi vẫn làm mọi trật tự nơi
vũ trụ, nơi con người bị xáo trộn.
Thánh Phaolô đã cảm nhận rất sâu
sắc: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không
làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” (Rm 7,19). Con người
không làm chủ được bản thân của mình. Lý trí báo cho họ biết là điều ấy không
đúng, không được làm, nhưng ý chí không còn vâng phục lý trí nữa mà sẵn sàng
dấn thân vào điều xấu. Hậu quả của tội lỗi còn làm cho con người sợ ánh sáng,
sợ phải đối diện trước mặt Chúa. Thánh Gioan đã nói: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh
sáng.” (Ga 1,5), vì tất cả những điều xấu sẽ bị phơi bày.
Con người càng rời xa Chúa thì càng
dễ chìm ngập trong những đam mê của tội lỗi. Tội lỗi làm cho con người bất an,
tội lỗi càng nặng bao nhiêu , lương tâm con người càng áy náy buồn phiền bấy
nhiêu. Đó chính là tâm trạng của vua Đavít: “Bao
lâu con lặng thinh không thú lỗi, thì gân cốt rã rời, cả ngày con gào thét.”
(TV 32, 3).
Có lẽ ai trong
chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về tội lỗi. Một hình ảnh rất cảm động, ngay cả
những linh mục khi tĩnh tâm hằng năm cũng đều xếp hàng để được xưng tội. Những
người từng ngồi tòa lắng nghe tội của người khác, nhưng khi đối diện với Thiên
Chúa, cũng là những tội nhân.
Trước mặt Thiên
Chúa ai cũng giống ai, tất cả đều là tội nhân; nhưng khác một điều là người tội
nhiều hay ít, kẻ tội này người tội kia. Người càng lớn tuổi, chức càng cao, quan
hệ rộng bao nhiêu thì cạm bẫy kéo theo cũng nhiều bấy nhiêu và vì thế bản thân
sẽ rất dễ dàng vướng vào tội lỗi. Từ đó dễ nhận ra càng làm lớn thì càng dễ gặp
những thử thách cám dỗ và như vậy có khi tội càng nặng hơn! Càng làm lớn ở đây
hiểu theo nghĩa lớn về tuổi tác, lớn về địa vị, về kinh nghiệm …
Nhưng Thiên Chúa vẫn luôn chờ
đợi và tha thứ tội lỗi cho con người trong suốt lịch sử cứu độ. Trong đáp ca ngày lễ, điệp ca: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (x. Tv 118,1-29) đã nhắc nhở điều đó. Và
trong mùa chay, chúng ta cũng đã được nghe rất nhiều câu chuyện trong Kinh
Thánh nói về Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Người.
Dụ ngôn ”cây
vả không ra trái” (Lc
13,6-9) cho thấy lòng thương
xót của Thiên Chúa thật vô cùng vô tận và Ngài vẫn kiên nhẫn chờ đợi, mong
ngóng chúng ta sinh hoa kết trái theo thánh ý của Ngài. Dụ ngôn “người cha nhân hậu” (Lc
15,11- 32)
cho thấy Thiên Chúa chính là người cha
nhân hậu, là Đấng giàu lòng thương xót. Người yêu thương tha thứ đối với các
tội nhân, và mặc cho họ phẩm giá làm người.
Cảm động nhất là câu chuyện về người phụ nữ ngoại tình (Ga 8,2-11). Theo luật Do Thái,
bà ta sẽ bị ném đá cho đến chết. Trước khi bị ném đá, người ta đã dắt người tội
phạm ấy đến trước mặt Chúa Giêsu, để xem Người cư xử thế nào. Trước vấn đề này,
Đức Giêsu chậm rãi viết trên đất, tâm tình như chùng xuống, không hừng hực như
những người đang kết án, để làm cho mọi việc lắng đọng. Người chậm giận trước
tội lỗi của người phụ nữ và bảo họ rằng:
“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ
việc lấy đá mà ném trước đi”. Câu nói ấy đã đụng chạm vào con tim mỗi
người, bởi người ta rất thích ném đá nhau, kết tội nhau, nhưng che giấu tội của
mình cho thật khéo. Vì thế khi nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt
đầu từ những người lớn tuổi. Khi
chỉ còn lại một mình Đức Giêsu và người phụ nữ thì đứng ở giữa, Người đã nói: “Tôi
không kết án chị đâu!”. Đấng Thánh tinh tuyền và giàu Lòng Thương
Xót đã tha tội cho một kẻ đáng chết:
“Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”.
Chính vì thế, khi mở Năm Thánh
Lòng Thương Xót, ý định của Đức Thánh Cha Phanxicô là muốn khơi lên Lòng Thương
Xót để con người đừng lẩn trốn, mà hãy quay về với Thiên Chúa hầu lãnh nhận
lòng thương xót của Người. Có khi nào chúng ta bình tâm suy gẫm để nhận ra là
mình đã được tha thứ và thoát khỏi án chết đời đời nhờ Lòng Thương Xót của
Thiên Chúa, nhờ Máu và Nước từ Trái Tim đau thương của Chúa trên
cây Thánh Giá bị lưỡi đòng chọc mở tuôn đổ ra hay không?!
Năm Thánh Lòng Thương Xót mời
gọi chúng ta trở về giao hòa với Thiên Chúa để làm mới lại cuộc đời. Trở về với
Thiên Chúa để nhận ra con người thật của mình, tôn vinh Thiên Chúa để được yêu
thương hướng dẫn, để rồi không còn buông theo những đam mê trần tục tầm thường. Khi đã sống trong lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa qua Bí
Tích Hòa Giải, bổn phận của chúng ta là phải biết đem lòng nhân từ đó của Người đến cho tha nhân, cho hàng xóm láng giềng của chúng ta.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II đã nói: "Tương lai của
nhân loại trên mặt đất này sẽ ra sao? Chúng ta không được biết. Tuy nhiên, con
người có thêm tiến bộ thì không may cũng không thiếu kinh nghiệm đớn đau. Nhưng
ánh sáng của lòng thương xót Chúa sẽ chiếu sáng đường đi cho con người trong thiên
niên kỷ thứ ba. Người cũng cho rằng chỉ khi nào con người cảm nhận được lòng
thương xót vô biên của Thiên Chúa dành cho nhân loại thì con người mới có thể
"nhìn vào anh chị em của mình với đôi mắt mới, với thái độ vị tha và liên
đới, đại lượng và tha thứ".
Sáng thứ Sáu 04-03-2016, trước
khi chủ sự nghi thức sám hối tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Đức Thánh
Cha Phanxicô đã tiếp kiến khoảng 500 tham dự viên của khóa học về toà trong.
Khóa học nhằm giúp các chủng sinh và linh mục mới chịu chức cử hành đúng đắn Bí
Tích Hòa Giải. Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Ai cũng có thể nhận được ơn tha thứ
của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha yêu thương luôn chờ đợi tất cả con cái Người,
nhất là những ai lầm lạc hay những người xa cách. Bí Tích Hòa Giải là nơi đặc
biệt để cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa”.
Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ
hội để tội nhân làm hòa với Thiên Chúa, là năm Giáo Hội dùng kho tàng ân sủng
mà Thiên Chúa đã ban để tha thứ tội lỗi và tha luôn vạ cho dân của Người. Đây
quả là một năm hồng ân tuyệt vời, năm mà con người có thể sà vào lòng thương
xót của Thiên Chúa để lãnh nhận tình yêu thương, để được ra đi bình an như Chúa
đã nói với người phụ nữ tội lỗi. Hãy quay về với Thiên Chúa qua Bí Tích Hòa
Giải để ngụp lặn trong lòng thương xót của Ngài như Thánh vương Đavít đã làm:
Bởi thế, con đã xưng tội
ra với Ngài,
chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con.
Con tự nhủ: "Nào ta đi thú tội với Chúa,"
và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con.
chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con.
Con tự nhủ: "Nào ta đi thú tội với Chúa,"
và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con.
(Tv 32, 5)
XIN CHO CON ĐỨC TIN
Nếu mắt tôi không thấy
Và ngón tay không xỏ
Những dấu đinh tay Người
Tôi không thể nào tin.
Như ngày xưa Tô-ma
Con người trần mắt thịt
Duy lý, duy thực nghiệm
Luôn hoài nghi, yêu sách
Đòi lý lẽ minh bạch
Nhân, vật chứng rõ ràng
Chỉ tin vào sự thật
Khi mắt thấy, tay sờ.
Đặt ngón tay vào đây
Hãy nhìn xem tay Thầy
Đặt tay cạnh sườn ta
Đừng cứng lòng như đá
Nhưng hãy tin nơi Thầy.
Được mắt thấy, tai nghe
Dung nhan Người sống lại
Tiếng yêu thương tha thiết
Bữa Tiệc ly ngày qua
Đôi tay được đụng chạm
Tới xác thân thánh Người
Tô-ma chợt bừng tỉnh,
Quỳ lạy tôn vinh Người:
Lạy Thiên Chúa của con!
Lạy Thiên Chúa của con!
Anh tin vì thấy Thầy
Phúc thay người không thấy
Nhưng vẫn tin nơi ta.
Con là kẻ hậu sinh
Chỉ tin theo bằng chứng
Của các tông đồ xưa
Qua lời dạy Giáo Hội
Xin cho con Đức Tin
Lòng tin bằng hạt cải
Để rao truyền chân lý
Đức Kitô chịu chết
Phục Sinh sau ba ngày
Cho con người được sống
Hưởng vinh quang với Người.
Jos. Hoàng Mạnh Hùng
Chúa Nhật II Phục Sinh
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)